Y Đức Hai Họ Mộng Bào
cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 51
Cũng lắm chước trừ tà diệt quái
Đạo của ta vạn đại thánh hiền
Tôn sư sách thuốc khảo biên
Sử gia hoạt pháp lưu truyền tới nay
Mầu nhiệm thay chẳng hay chấp nhất
Yêu thuật tà thành thật lắc đầu
Được thời độc sĩ theo sau
Múa may phù phép đua nhau lừa người
Dân mê muội lẽ trời chẳng tỏ
Sợ chết thời lọ mọ vời sư
Phong tà dịch hạch như từ
Hố sâu lầm lạc thói hư mặc đời
Dù đau đớn tả tơi thân xác
Phép bí tung tự tác dị đoan
Oan gia trái chủ lăng loàn
Nhà chùa hốt của mưu toan hại người
Sư hổ mang ăn chơi đàng điếm
Vãi dâm ô mưu chiếm nhang đèn
Chính tà ngụy biện bao phen
Vô thần giả mạo bon chen tượng thờ
Phép y trị nào mơ mộng hão
Khoa nội thày chỉ bảo thuốc thường
Bệnh tà áp dụng biến phương
Cao thâm học thuật tìm đường cứu nguy
Lẽ tự nhiên xét suy tạo vật
Nghĩa trọng coi chân thật khinh tài
Bệnh sinh nội tiết trong ngoài
Học cho tường tận trừ loài yêu tinh
Hương trừ quái quỷ kinh gõ mõ
Hồ ly tinh sợ chó săn đi
Mồ hoang mả dại chim di
Xà yêu sợ tỏi lạị nghi hùng hoàng
Thổi bồ kết xênh xang lỗ mũi
Tưởng hắt hơi lụi cụi rồi thông
Cải cay lệ chảy long tong
Hoa tiêu tắc khí cầu mong hơi rời
Nước đái rùa chữa người cấm khẩu
Xương chuột cho cô cậu mọc răng
Cây kim từ thạch dính nhằng
Biết ngay hạt cải lăng xăng chốn nào?
Có hổ phách lẽ nào chẳng thấy
Mật rái kia nước ấy rẽ liền
Keo loan xương nối đáng tiền
Tiết đông nhờ cậy ngó sen
đó mà
Bỏ xác cua sơn ta tan rữa
Thanh quế kia vì nhựa nấu tan
Ngọc mềm mỡ cóc rã tàn
Như bùn trong bát ngút ngàn nghiệm suy
Kể sơ qua cũng tùy
nhận thức
Hết thảy đều đã được chứng minh
Hết lòng cứu chữa bệnh tình
Lương y từ mẫu chúng sinh đạo hành.
*Nguyên tác thơ lục bát: Ngư Tiều Y Thuật Vấn Đáp
28.4.2020 Lu Hà
Y Đức Hai Họ Mộng Bào
cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 52
Tiều mới hỏi trời sanh đất dưỡng
Bốn dạng thường sinh trưởng mà ra
Trăm sông nghìn núi bao la
Xin nghe các chứng đàn bà có thai
Tháng kinh can thái lai tĩnh dưỡng
Hai tháng sau ba tượng tâm bào
Thứ tư kinh tiểu trường trao
Năm thì tỳ dưỡng sáu vào vị hương
Bảy kinh phế thông thường tháng tám
Chín tháng kinh thận dám nối liền
Đủ ngày trọn tháng dĩ nhiên
Mười kinh, mười tháng về miền bàng quang
Nhóm xung nhâm âm dương thủ túc
Cùng tam tiêu phủ phục dưỡng thai
Con người đệ nhất trần ai
Lời hay Sào thị có bài sách biên
Tâm làm mẫu chính chuyên tạng chủ
Lấy tam tiêu ấy phủ thênh thang
Tổng quan thai gốc máu sang
Máu nhờ tâm chủ giữ đàng mạch kinh
Mạch máu ấy nuôi hình thai nghén
Thủ thiếu âm chẳng chẹn bởi tâm
Thai nhi phát triển tới tầm
Chia đâu phiên thứ giáng cầm chủ trương
Trong kinh lạc âm dương suy ngẫm
Đắp đổi nhau dựa dẫm năm hành
Có ông Phùng thị nổi danh
Gốc theo kinh chỉ sử xanh luận bàn
Bậc lương y chứa chan nhân loại
Tay nghề hay chẳng ngại thấp cao
Kinh truyền:”tâm với tâm bào”
Thật ra hai mạch lại vào một nơi
Ta cũng biết máu hơi kinh lạc
Đủ mười hai nào khác trong mình
Có thai tiếp đến bế kinh
Vần xoay nhóm máu đồng tình nuôi thai
Luận bào thai mấy ai Sào thị
Tuy vắn dài Phùng thị khác nhau
Đọc nhiều thông tuệ cái đầu
Lời nào xác đáng nhu cầu sáng soi
Ngư cho rằng giống nòi đã đặng
Nuôi thai nhi mang nặng đẻ đau
Vuông tròn sinh đẻ theo sau
Cớ sao lắm kẻ thai nhau chẳng lành?
Năm ba tháng chẳng thành con cái
Nghiệp tạo nên oan trái gì đây
Môn buồn phúc đức vơi đầy
Thai hư ngày tháng hao gầy phụ nhân
Theo Thuần Khôn tinh thần chao đảo
Chẳng khiêng khem chao đảo lo âu
Máu hơi chẳng đủ dãi dầu
Xung nhâm mạch yếu cơ cầu mặc nhiên.
*Nguyên tác thơ lục bát: Ngư Tiều Y Thuật Vấn Đáp
28.4.2020 Lu Hà
Y Đức Hai Họ Mộng Bào
cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 53
Thai nguyên gốc chẳng bền thể dục
Bệnh hoạn nhiều tứ túc khó thành
Trách ai chửa nghén chẳng lành
Liền mang tiểu sản mong manh nơi mình
Bán sản nên điêu linh ảm đạm
Trái non kia u ám trên cành
Xầm xì đức hạnh tiết danh
Gốc cây lỏng lẻo trái đành rụng non
Máu hơi thiếu đẻ con ốm yếu
Thân hao gày thất thểu ra gì?
Vướng vòng nhục dục sân si
Ăn chơi bất kể vật chi dữ lành
Phường trí trá hư danh bất hảo
Thuốc lang băm lếu láo bất kinh
Xót xa thế thái nhân tình
Lầm mang độc vị hại tinh huyết người
Thợ trời giúp tình đời đây đó
Lời cấm xưa chớ có coi thường
Nguyên trùng miêu đỉa bất lương
Có thai nên tránh nhiễu nhương mặc dầu
Thật nguy hiểm ô đầu, phụ tử
Với thiên hùng ba đậu thủy ngân
Ngô công dã cát sát nhân
Tam lăng ngưu tất tâm thần đáng thương
Đại giả thạch xạ hương
đại kích
Nguyên hoa kia kình địch thư hoàng
Nha tiêu xà thuế tiêu mang
Mẫu đơn tạo giác quế càng độc tăng
Đừng bán hạ lăng nhăng thông thảo
Can tất còn giải trảo mai cua
Than ôi bồ kết chu sa
Đào nhân rắn rết chẳng tha mạng người
Gốc cỏ tranh ma chơi hồn quỷ
Mao căn kia bi lụy hòe hoa
Khiên ngưu địa đảm nhạt nhòa
Thân tàn ma dại mù lòa thuốc thang
Tiều chắp tay phải càng thận trọng
Người mang thai phận mỏng cánh chuồn
Giữ gìn thể xác linh hồn
Nội tâm tĩnh tại nỗi buồn tiêu tan
Còn những bệnh băng hàn thân giá
Thuốc nóng càng triệt phá thai nhi
Ta còn có biện pháp gì?
Thai tiền hợp dụng duy trì dài lâu
Thuốc trợ thai nhiệm mầu công hiệu
Môn cho rằng thông hiểu chước y
Nếu như biến chứng bất kỳ
Chớ quen thường trị phải suy cho cùng
Như đau lạnh tử cung nhức nhối
Quế phụ càng bối rối can khương
Bàng quang máu chứa bất thường
Đại hoàng khỏi hốt thoát tường đào nhân
*Nguyên tác thơ lục bát: Ngư Tiều Y Thuật Vấn Đáp
29.4.2020 Lu Hà
Y Đức Hai Họ Mộng Bào
cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 54
Phương thuốc trị tâm thân ưng chịu
Chỗ đau nào mắc míu tới thai?
Xưa nay y biến kỳ tài
Thuận theo thiên ý vạn loài muôn phương
Chương thai dựng bất thường tắc nghẽn
Cứu chữa người thai nghén tận tình
Sách ghi gọi chứng: “ ám kinh“
May không nhơ uế tháng mình mang thai
Có người bảo: “cấu thai” là vậy
Nghén rồi kinh nguyệt thấy tuôn ra
Máu ra thai nghén chẳng sa
Có tên “thai lậu” gọi là huyết dư
Có người nghén năm dư ấy chớ
Thai nằm yên dễ sợ mới sinh
Bởi vì khí huyết trong mình
Gần mười tám tháng bụng phình chửa to
Thật lạ lùng đáng lo ngại lắm
Chứng “quỷ thai” thê thảm buồn thay
“Trưng hà” “bĩ khối” lắt lay
Nhớt nhau hơi huyết đọa đày như thai
Máu đầy chứa ngày dài hư thiệt
Thật kinh hoàng “súc huyết”tang thương
Than ôi! Bệnh biến khôn lường
Giống thai quái đản dị thường xiết bao
Bốn mươi chín tuổi cao thiên quý
Đã dứt đường tục lụy mang thai
Vợ chàng Tịnh Phổ là ai?
Đã hơn sáu chục tuổi ngoài thai mang
Bốn mươi chín tuổi nàng túy lúy
Mới vu quy thiên quý thông thường
Tô Khanh gái rượu phấn hồng
Mới mười hai tuổi lấy chồng có thai
Coi hai chuyện biên ngoài dấu sử
Đừng đắn đo phận sự thế thôi
Biết bao kinh nghiệm trau dồi
Liệu đường biến hiện để rồi kê đơn
Luận y học gặp cơn tai biến
Phải xét suy biểu hiện trong ngoài
Nguyên nhân động đến nội thai
An lòng thân chủ nguôi ngoai mấy bài
Tiều quả quyết trước thai chẩn mạch
Thật rõ ràng dám trách chi ai
Xưa nay nhắc nhở mãi hoài
Gái thì bên hữu tả trai đã đành
Tả di hoạt tật sanh trai đó
Gái hữu di hoạt có thấy không
Chỉ e rắc rối chất chồng
Thai đôi bụng chửa má hồng phôi phai
Coi mạch chủ hai tay sáu bộ
Môn bảo rằng ba bộ mạch đi
Máy trời tạo hóa vân vi
Âm dương hai chữ thịnh suy khác hình.
*Nguyên tác thơ lục bát: Ngư Tiều Y Thuật Vấn Đáp
30.4.2020 Lu Hà
Y Đức Hai Họ Mộng Bào
cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 55
Gốc tạng phủ thần linh soi sáng
Thuận ngũ hành năm tháng tạo ra
Vần xoay trong cõi người ta
Vợ chồng con cái mẹ cha an lành
Ngôi chồng vợ tung hoành thuận nghịch
Mẹ cùng con cảm kích dựng xây
Bộ âm tạo mạch dương vầy
Chồng thừa ngôi vợ bấy chầy vào trong
Lại như vợ mở cung cửa lớn
Lấn ngôi chồng bộn rộn ngóng trông
Bộ dương để mạch âm thông
Thong dong tới bậc minh công là hoành
Thừa ngôi mẹ nghịch danh con ngỏ
Mẹ thừa con thuận ở tình nhau
Ung dung bắt mạch xoát cầu
Máy âm dương nhóm biết đầu gái trai
Ba bộ dương mạch ai đó thịnh
Là con trai dự tính chẳng sai
Ba âm mạch thịnh gái thai
Trai đôi tả đới
tung hoài mãi thôi
Hữu đới hoành gái đôi hóa dịch
Thành trai ba mạch
nghịch tả dương
Gái ba mạch thuận là thường
Hữu âm hình tướng vấn vương truyền lòng
Huyền, khẩn, lao, hoạt, cường yên vị
Chết rõ ràng trầm tế vân vi
Cao tay mạch tượng lỗi gì
Biết ngay thai yểu còn nghi ngại gì?
Bụng bà chửa thai nhi nằm đó
Mấy chứng thai xưa có khảo biên
Sách ghi tử giản tử huyền
Than ôi! Tử thũng, tử phiền, tử lâm
Bao chứng tử hoài nhâm tử khí
Hơi nghén gây tỳ vị đau trong
Tiều rằng chứng giản là phong
Mong manh mạng sống đau lòng nhân gian
Đàm nhiều chứng nguy nan tà ác
Khí hư ra xơ xác âm hao
Hai tay co quắp đau bào
Lậu thai bụng lớn máu trào túa ra
Thai lậu động khác xa là chứng
Thai bình thường mẹ nựng con ta
Tình thương mẫu tử thiết tha
Động là khí bách lậu là nhiệt thương
Lời thai luận biến thường nhiệt thấp
Nội thương bàn hô hấp thấy ai
Khử tà mới giữ được thai
Phong đàm thuốc ấy đúng loài trị an
Chứng huyễn hoặc mê man bất tỉnh
Phải lo toan định tính rõ ràng
Làm sao cho hết mơ màng
Nghén chưa đủ số bụng nàng đớn đau
*Nguyên tác thơ lục bát: Ngư Tiều Y Thuật Vấn Đáp
30.4.2020 Lu Hà
Y Đức Hai Họ Mộng Bào
cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 56
Bảy tám tháng sau thì chuyển bụng
Nào biết đâu như chứng giả đò
Thày lang bốc thuốc thăm dò
Khù khờ phép tắc lò mò linh tinh
Nửa bốc thuốc thôi sinh ngần ngại
Tháng còn non sợ hại cả hai
Nửa thời hốt thuốc an thai
Còn thừa ngày tháng hoa khai lỗi kỳ
Tiếng sao khỏi lang y họa rước
Thuốc nào hay xin được lưu truyền
Nhập Môn quan sát trước tiên
Luận y thai nghén sách biên tỏ tường
Mười tháng chửa thông thường thai lệ
Cho đến ngày cửa sẽ mở ra
Tử cung co thắt rên la
Lưng đau nhức nhối mắt hoa tối trời
Như dưa chín cuống rời khỏi gốc
Nằm đơ ra hồng hộc cạn dòng
Trái thơm quả ngọt long đong
Gọi là chính sản cầu mong an lành
Bảy tám tháng mong manh yếu ớt
Chứng lộng thai xanh nhợt đuối hơi
Gọi là thí nguyệt nhặt lơi
Bụng đau xâm xỉa tả tơi mặt mày
Kinh nghiệm cho xưa nay khuyên bảo
Con nằm yên mẹ dạo bước chơi
Vẫn chưa đủ tháng chẳng rời
Mẹ yên tâm nhé nụ cười hân hoan
Trời sinh voi chứa chan ngọn cỏ
Luật tự nhiên xin chớ lo phiền
Hỏi tra ngày tháng trước tiên
Ly kinh một mạch coi liền là hay
Chứng lộng thai lắt lay chính sản
Thật hiểm nguy đừng dạn dĩ ngay
Thôi sinh phạm lỗi tắt ngày
Khai hoa chẳng đợi quắt quay kiếp người
Hại thế nhân hại đời thày nữa
Kê đơn liều chẳng chữa người ta
Hãy coi cái kén trứng gà
Đủ ngày mỏ khoét vỏ ra con này
Thuốc an thai dễ hay gây nạn
Đẻ đến ngày thày cản con ra
Nỗi niềm mong đợi thiết tha
Lang băm quậy phá cảnh nhà nát tan
Lộng thai chính sản, bàn tay nắm
Bậc lương y đâu dám kê liều
Cứu người cũng có lắm chiêu
Ly kinh mạch quyết bao điều tử sinh
Một hơi sáu lần ly kinh đến
Hoạt tế trầm mạch chẹn cũng đành
Nửa đêm đau dữ sắp sanh
Ngày mai sẽ thấy sáng danh Chúa trời.
*Nguyên tác thơ lục bát: Ngư Tiều Y Thuật Vấn Đáp
1.5.2020 Lu Hà
Y Đức Hai Họ Mộng Bào
cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 57
Tiều mới hỏi chửa thời rồi đẻ
Bởi cớ sao còn kẻ oán than
Nhân sinh sao lắm gian nan
Tự nhiên xúc vật bình an hơn người
Môn cho rằng cảnh đời lỗi đạo
Chẳng kiêng dè bợm trạo sinh nhai
Đàn bà vô ý mang thai
Trách trời oán đất đơn sai tại mình
Thuốc phụ khoa thánh minh căn dặn
Phải tuân theo đều đặn thường xuyên
Bảy điều sư tổ từng khuyên
Giữ thân né tránh sầu miên nhọc nhằn
Chớ xông pha săn văn công việc
Khí huyết tăng bày biện linh tinh
Hai là tới trước kỳ sinh
Dăm ba ngày sẽ thình lình trở thai
Điều thứ ba ép nài ăn uống
Khiến thai nhi to tướng béo phì
Thứ tư dâm dục tù tì
Chăn loan gối phụng tỉ ti ái tình
Thành lao lực đốt tinh phá khí
Bào khô khan dị nghị xa gần
Mặc cho âm hộ rộng dần
Lăng xăng thăm hỏi gây phần loạn sinh
Thứ năm ngại sợ mình thai động
Chữ ưu nghi lại lộng vào thân
Khiến ai vấn bốc tần ngần
Sản hoàng hai chữ bần thần não nhân
Nghe mụ đỡ rặn khan vội vã
Khiến con ra ngược cả bụng cương
Sáu là nguy hại nội thương
Phều phào ốm yếu mình thường thiếu hơi
Nguồn khô cạn rặn hơi quá sớm
Con khó ra lại chớm máu tươi
Bảy phần phận sự chơi vơi
Sách y ghi chép tới nơi tận tình
Cõi nhân gian tử sinh hợp lẽ
Theo luật trời nặng nhẹ phân minh
Truyền thừa xem pháp tướng tinh
Mặt chừng là mẹ lưỡi hình dáng con
Mặt tươi tắn vuông tròn lưỡi thắm
Lưỡi thâm khô ảm đạm mặt xanh
Giá băng mẹ chết thôi đành
Lưỡi xanh mặt đỏ con thành hồn ma
Mặt xanh lưỡi đỏ là mẹ sống
Còn lưỡi xanh mặt đỏ giống nòi tiêu
Hài nhi thất thểu phiêu diêu
Hồn mây thê thảm bóng chiều tịch dương
Phép y lý mạch tường sáng tỏ
Phương pháp nào chỉ rõ cho hay
Tiều rằng mạng sống trong tay
Ngàn cân sợi tóc gió bay lá vàng
*Nguyên tác thơ lục bát: Ngư Tiều Y Thuật Vấn Đáp
2.5.2020 Lu Hà
Y Đức Hai Họ Mộng Bào
cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 58
Đường Nhập Môn vẻ vang sản hậu
Một khoa riêng trần cấu bấy nay
Tổ sư có lắm vị hay
Chứng nào thuốc ấy uống ngay khỏi liền
Nghe tâm pháp thày truyền hậu thế
Nguyên ba điều ta kể ra đây
Một là máu trống hỏa đầy
Cuồng kinh nóng táo thân gầy xác xơ
Chứng bại huyết bơ phờ mệt nhọc
Vọng hành tăng kêu khóc đầu đau
Chân tay bụng cứng bám nhau
Ăn nhiều uống lắm trước sau tới cùng
Hay nôn mửa ba xung ba cấp
Chiếu chăn thành hầm hập rên la
Xung vì bại huyết mà ra
Xung tâm, xung phế thật là thảm thương
Cấp mới đẻ thê lương phiền não
Thổ tả càng nhệu nhạo mùi hôi
Tổ xưa dùng thuốc chữa rồi
Có ba việc cấm than ôi tạc lòng
Thang phật thủ xin mong đừng bốc
Vị xuyên khung cực độc chẳng lành
Xuyên khung tán khí đã đành
Lại hay phát hãn rắp ranh hư nhèm
Thang tứ vật hay kèm trong thuốc
Địa hoàng quen thược dược dụng sinh
Chẳng hiềm sống lạnh máu kinh
Ngặt thời phải dụng chín mình chế đi
Khí huyết suy sau khi chửa đẻ
Thược dược chua lạnh sẻ tửu sao
Cấm dùng thang tiểu sài hồ
Hoàng cầm tính mát ngăn hồ huyết đi
Bệnh dày vò tật di dơ dáy
Lời huấn kinh thày dạy chớ quên
Mấy mùi dược tính chẳng hiền
Chớ cho xâm nhập vào miền tam tiêu
Biểu chứng phạm bao điều giả tượng
Có rất nhiều hình tướng y thư
Xưa nay có mấy tôn sư
Trị khoa hậu sản như từ Đan Khê
Dòng Chu tử hành nghề tỏ rõ
Đẻ về sau khá bổ máu hơi
Gốc làm mạch chủ thảnh thơi
Quản chi tạp chứng về nơi ngọn ngành
Thật cao minh ngọn xanh bền gốc
Bá thuật cùng thuốc bốc thiên uyên
Ngợi khen mạch quyết lưu truyền
Bao người sản hậu nhân duyên mất còn
Ngư lại hỏi trẻ con lẫm chẫm
Một hai ba tuổi nhẩm chưa đầy
Đau thời coi hổ khẩu tay
Cho hay thực chỉ vằn bày chứng cai.
*Nguyên tác thơ lục bát: Ngư Tiều Y Thuật Vấn Đáp
2.5.2020 Lu Hà
Y Đức Hai Họ Mộng Bào
cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 59
Phép coi gái hữu trai bên tả
Trỏ lóng ba ngón ngả ba quan
Phong quan lóng gốc thế gian
Lóng nhì ải khí ba bàn mệnh quan
Vằn xanh ngang gió can quá mức
Bỗng đỏ vằn nóng nực ran mình
Vằn xanh đỏ loạn chứng kinh
Vằn hồng bợt nhạt ấm mình bụng đau
Vằn lóng gốc trị mau khỏi bệnh
Phải nhanh tay chớ chểnh mảng lâu
Vằn qua ngón giữa chuyển mầu
Hơi tà chạy đến càng rẫu rĩ than
Bắn lên trảo, giáp nan giải lắm
Chứng nguy này thê thảm hài nhi
Vằn đen như mực loạn bì
Lấn vào ba ải đông y hoảng rồi
Biết chừng ấy mà thôi chẳng rõ
Còn cách nào đâu đó bệnh tình
Môn rằng: Con trẻ mới sinh
Máu hơi còn yếu mạch hình khó coi
Giáp năm cũng có người mắc chứng
Thật đớn đau đi đứng hay ngồi
Xem ra bệnh đã nặng rồi
Gân xương mạch lạc lần hồi mở ra
Kỳ Nhân Sư nhi khoa giỏi trị
Khí sắc coi vị trí mạch kinh
Tướng xem trên huyệt Tình minh
Thấy trong tạng phủ bệnh tình chữa ngay
Xem ngón tay bấy nay biếng nhác
Thày rờ xem mạch Sác có không
Sác cùng chẳng sác coi ròng
Sác cao bốc nhiệt sác không khí hàn
Một ngón tay thong dong ba mạch
Hơi thở đều tách bạch điều hòa
Hai lần là thoát chẳng ngoa
Ba lần là thốt nhạt
nhòa mồ hôi
Bốn lần tổn than ôi năm đó
Gọi là hư chăng chớ vấn vương
Sáu lần không bệnh bình thường
Bảy lần bệnh nhẹ tám đương cận cài
Từ chín đến mười hai sẽ chết
Phép coi này nhất thiết tinh thông
Ngư bàn sách ấy thuần dương
Về phần trẻ nhỏ bệnh thường nhiệt dâm
Tiểu nhi ca tình thâm nòi giống
Bệnh trẻ con kinh động thống phong
Tich đờm cổ họng không thông
Cam sài giun sán mênh mông vô cùng
Sao kể hết chập chùng biển cả
Kiếp con người vàng đá phôi phai
Khen cho con tạo cắm cài
Âm dương kín chữ trần ai muôn hình.
*Nguyên tác thơ lục bát: Ngư Tiều Y Thuật Vấn Đáp
3.5.2020 Lu Hà
Y Đức Hai Họ Mộng Bào
cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 60
Ngư suy ngẫm âm tinh thấu đặng
Chữ âm này để tặng tiểu nhi
Chờ ngày thiên quý tới kỳ
Tinh thông sáng tỏ đền nghì âm dương
Sách ghi rõ thông thường bổ dưỡng
Đọc kỹ thì thuận nhượng thơ ngây
Tính âm luận ngữ chưa đầy
Trẻ con người lớn bệnh gây chẳng đồng
Vốn chẳng hại bên trong tình bảy
Sáu dâm kia hết thảy luận tà
Một mai ngoại cảm chẳng qua
Cam, kinh, thổ, tả, tích hòa trường đông
Thời hàn cảm thử phong tích nhiệt
Đậu chẩn sang cấp thiết đơn ban
Cản ngăn tạp bệnh lan tràn
Có mười lăm chứng nguy nan rập rình
Ta đơn cử tử sinh cụ thể
Mạch chẩn chờ xin kể ra đây
Trên mi mắt nổi vằn dây
Đỏ lừ chạy suốt lấp đầy con ngươi
Sưng mỏ ác phù nơi dưới ngực
Kể cả khi đau nhức phập phồng
Mũi khô đen sạm bụng gồng
Gân xanh chằng chịt lộn tròng mắt lên
Nhìn không chuyển thường xuyên đờ đẫn
Móng sạm đen chen lấn chân tay
Đột nhiên mất tiếng ai hay
Lưỡi thè ngoài miệng nhớt nhày chảy ra
Trẻ nghiến răng kêu la hay cắn
Thở phì phò ỉa rặn phân chim
Ngáp như cá, bỗng im lìm
Giun thò miệng mũi bóng chìm hồn ma
Chết tức tưởi mẹ cha bất lực
Thày thuốc càng ráng sức cứu người
Than ôi, mười đứa chết mười
Bệnh này khó chữa cảnh đời thê lương
Mười sáu chứng khác thường khinh trọng
Bệnh chứng này trông ngóng nhiều phương
Chẳng qua hư thực hai đường
Chứng hư chứng thực từng chương rạch ròi
Chẳng sai ngoa hẳn hoi công luận
Mười bệnh thường lấn bấn mãi hoài
Chín hư một thực gái trai
Ví như đầu tháng dằng dai vẫn còn
Khắp muôn nơi trăng non ló rạng
Mở lòng gương thực trạng chưa ra
Dạng tròn vành vạch sơn hà
Bổ nhiều, tả ít, theo tà thực hư
Thuốc nhi khoa nhẫn từ sư tổ
Để ngày nay chứng tỏ mọi đằng
Cao thâm y thuật thung thăng
Cảm ơn liệt vị cung hằng sáng soi
*Nguyên tác thơ lục bát: Ngư Tiều Y Thuật Vấn Đáp
4.5.2020 Lu Hà
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét