Thứ Hai, 5 tháng 7, 2021

Thơ Tình Chùm Số 1.234

 

Y Đức Hai Họ Mộng Bào

cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 60

 

Ngư suy ngẫm âm tinh thấu đặng

Chữ âm này để tặng tiểu nhi

Chờ ngày thiên quý tới kỳ

Tinh thông sáng tỏ đền nghì âm dương

 

Sách ghi rõ thông thường bổ dưỡng

Đọc kỹ thì thuận nhượng thơ ngây

Tính âm luận ngữ chưa đầy

Trẻ con người lớn bệnh gây chẳng đồng

 

Vốn chẳng hại bên trong tình bảy

Sáu dâm kia hết thảy luận tà

Một mai ngoại cảm chẳng qua

Cam, kinh, thổ, tả, tích hòa trường đông

 

Thời hàn cảm thử phong tích nhiệt

Đậu chẩn sang cấp thiết đơn ban

Cản ngăn tạp bệnh lan tràn

Có mười lăm chứng nguy nan rập rình

 

Ta đơn cử tử sinh cụ thể

Mạch chẩn chờ xin kể ra đây

Trên mi mắt nổi vằn dây

Đỏ lừ chạy suốt lấp đầy con ngươi

 

Sưng mỏ ác phù nơi dưới ngực

Kể cả khi đau nhức phập phồng

Mũi khô đen sạm bụng gồng

Gân xanh chằng chịt lộn tròng mắt lên

 

Nhìn không chuyển thường xuyên đờ đẫn

Móng sạm đen chen lấn chân tay

Đột nhiên mất tiếng ai hay

Lưỡi thè ngoài miệng nhớt nhày chảy ra

 

Trẻ nghiến răng kêu la hay cắn

Thở phì phò ỉa rặn phân chim

Ngáp như cá, bỗng im lìm

Giun thò miệng mũi bóng chìm hồn ma

 

Chết tức tưởi mẹ cha bất lực

Thày thuốc càng ráng sức cứu người

Than ôi, mười đứa chết mười

Bệnh này khó chữa cảnh đời thê lương

 

Mười sáu chứng khác thường khinh trọng

Bệnh chứng này trông ngóng nhiều phương

Chẳng qua hư thực hai đường

Chứng hư chứng thực từng chương rạch ròi

 

Chẳng sai ngoa hẳn hoi công luận

Mười bệnh thường lấn bấn mãi hoài

Chín hư một thực gái trai

Ví như đầu tháng dằng dai vẫn còn

 

Khắp muôn nơi trăng non ló rạng

Mở lòng gương thực trạng chưa ra

Dạng tròn vành vạch sơn hà

Bổ nhiều, tả ít, theo tà thực hư

 

Thuốc nhi khoa nhẫn từ sư tổ

Để ngày nay chứng tỏ mọi đằng

Cao thâm y thuật thung thăng

Cảm ơn liệt vị cung hằng sáng soi

 

*Nguyên tác thơ lục bát: Ngư Tiều Y Thuật Vấn Đáp

4.5.2020 Lu Hà

 

 

 

Y Đức Hai Họ Mộng Bào

cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 61

 

Trẻ ấu thơ mặn mòi cá nước

Đức hiếu sinh thao thức lòng trời

Tổ sư bào chế cứu đời

Bệnh nào thuốc ấy rạch ròi xưa nay

 

Lợi thế tục nhiều thày chẳng ngại

Lang băm càng tác hại tiểu sinh

Kỳ Hoàng đạo học chứng minh

Khen thay trị bệnh thấu thấu hình thực hư

 

Đơn thuốc hay chân như cứu độ

Danh tiếng thơm sư tổ ghi công

Học trò rõ chước biến thông

Huyền vi y thuật mênh mông tấm lòng

 

Kiếp nhân sinh long đong trời đất

Thuốc nhi đồng sài giật nóng ban

Tử kim đĩnh, khỏi luận bàn

Quánh đờm ho nặng gian nan vô cùng

 

Bệnh sởi đậu phải dùng trợ vị

Lở lưỡi môi từng tí nhẹ nhàng

Kê đơn hóa độc đúng thang

Bảo long tinh tán thung thăng đáng tiền

 

Thiên châm hoàn, giảm liền nôn mửa

Sốt hãm luôn cứu chữa tới nơi

Nên dùng lô hội kịp thời

Chứng cam nên nhớ rạch ròi trước sau

 

Thuốc đã có phải mau ứng dụng

Ngư với Tiều tìm đúng phương hay

Hai chàng gặp bạn là may

Nhập Môn ưu ái tháng ngày chỉ cho

 

Đệ tử ruột tài cao uyên bác

Kỳ Nhân Sư tọa lạc nơi nao?

Ngư Tiều cảm khái dạt dào

Mong thày trở laị nghẹn ngào lệ sa

 

Khắp thiên hạ trăm nhà ngưỡng mộ

Bạn của thày tri cố hai ông

Họ tên là Hưởng Thanh Phong

Ảnh Minh Nguyệt lão tinh thông y truyền

 

Chẳng vướng bụi thiên nhiên tạo hóa

Bậc chân nhân tỏa đóa hoa mai

Thanh tâm khí tượng anh tài

Mỗi người một vẻ gót hài thần tiên

 

Thày ta vẫn thường xuyên thăm viếng

Với bạn hiền nức tiếng gần xa

Sẵn lòng Sào, Hứa ngâm nga

Tề, Di mát mặt trăng ngà bể dâu

 

Ba mươi sáu cung bầu hạc lỷ

Hưởng Thanh Phong tri kỷ mấy ai

Kỳ Nhân Sư một thiên tài

Ảnh Minh Nguyệt cũng hương lài thoảng bay

 

Vòng hối thực men say thoát khỏi

Đời tối bưng le lói bình minh

Ngẩn ngơ nhìn lại bóng mình

Mây lồng đáy nước lung linh góc trời

 

*Nguyên tác thơ lục bát: Ngư Tiều Y Thuật Vấn Đáp

5.5.2020 Lu Hà

 

 

 

Y Đức Hai Họ Mộng Bào

cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 62

 

Hai mươi tám sao chơi bốn biển

Chán hư danh hiện diện dáng hình

Gương thềm ngọc thỏ lung linh

Vầng trăng sáng tỏ cung nghinh tiếng đàn

 

Nhập Môn đang chứa chan thơ đọc

Bỗng khách đâu mời mọc thỉnh cầu

Chúa Liêu triệu đến sân chầu

Tôn sư rầu rĩ mái đầu tuyết sương

 

Chức thái sư Liêu vương ép buộc

Bổng lộc nhiều bốc thuốc kê đơn

Tôn sư căm giận oán hờn

Dật dờ sớm tối chập chờn bóng mây

 

Lòng bi phẫn bấy chầy thân phận

Kỳ Nhân Sư tủi hận chẳng ra

Dân tình thống khổ kêu la

Cửa nhà tan nát sơn hà giá băng

 

Thày cáo bệnh chẳng màng chức tước

Sợ triều đình ngờ vực sinh nghi

Nhập Môn chẳng rõ bệnh gì?

Vội vàng chuẩn bị ra đi thăm người

 

Ngư Tiều cũng tức thời biện lễ

Huynh đệ càng tri kỷ tương thân

Đan Kỳ theo lối đi gần

Gió nồm nam thổi đằng vân ráng chiều

 

Trời miền tây tiêu điều cảnh vật

Làn hơi sương phảng phất hồ sen

Non Kiều cây mọc cỏ chen

Hang sâu vực thẳm bao phen tuyết dày

 

Hươu vào động hạc bầy về núi

Ba người vừa cắm cúi bước vào

Thấy ngay Đạo Dẫn đón chào

Mời vào y quán nghẹn ngào trước sau

 

Thày chẳng chịu tự mù đôi mắt

Chốn thiên thai đóng chặt cửa thiền

Xông hai mắt đỏ triền miên

Sứ Liêu cũng chịu lụy phiền não thân

 

Cảnh nước mất nhà tan tang tóc

Dân lầm than kêu khóc khổ đau

Oán cừu thù hận theo nhau

Trẻ già trai gái dãi dầu nắng mưa

 

Nhập Môn nghe nhặt thưa lã chã

Giọt thương người lọ đá nát lòng

Trách thầm Minh Nguyệt Thanh Phong

Không ngăn cản được, hai ông phụ thầy

 

Không cố khuyên để vầy sao nỡ

Cảnh mù lòa món nợ y khoa

Tật tàn đôi mắt ướt nhòa

Di, Tề ẩn dật muối rau qua ngày

 

Nơi non Thú ai hay cam chịu

Chẳng chịu quỳ bám víu nhà Chu

Quản chi rừng núi âm u

Mai danh ẩn tích thiên thu u hoài.

 

*Nguyên tác thơ lục bát: Ngư Tiều Y Thuật Vấn Đáp

5.5.2020 Lu Hà

 

 

 

 

Y Đức Hai Họ Mộng Bào

cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 63

 

Đơì chiến quốc tranh tài vương bá

Danh chẳng sờn sắt đá kinh luân

Như ông Qủy Cốc ẩn thân

Học trò tuấn kiệt non gần đỉnh xa

 

Núi Thương Sơn bao la hùng vĩ

Bốn lão phu an trí tuổi già

Công danh chi nữa đá bia

Nào ai ràng buộc bên rìa tử sinh

 

Thú cày câu mặc tình lộc Hán

Nghiêm, Châu cùng lánh nạn công hầu

Tiên sinh Ngũ Liễu dãi dầu

Gặp cơn Tấn loạn mái đầu bạc phơ

 

Đào tể tướng hững hờ phú quý

Tướng sơn trung quy lụy phiền ai

Chúa Lương khuất lễ vật nài

Mới ra giúp sức trổ tài công huân

 

Tùy vô đạo dấn thân dạy học

Họ Vương kia khó nhọc Phần Hà

Luyện rèn mưu sĩ tại nhà

Trúc Lâm chén rượu nhân hà sầu ly

 

Bọn Lan Đình nhung y lả lướt

Thơ nhạc say sướt mướt với ai

Bụi Hồ vẩn đục chi hoài

Hành tàng hai chữ nguôi ngoai nỗi lòng

 

Hãy gỡ bỏ hết vòng danh lợi

Vật ngoài thân chới với bạc tiền

Sống cùng non nước thần tiên

Chính tâm an tọa sầu miên khước từ

 

Thuở Yêu Ly riêng tư khác biệt

Khổ nhục nào nhất thiết trừ hung

Lo âu tiếng nhạc mịt mùng

Như ông Sư Khoáng đường cùng thảm thay

 

Tự xông khói mù ngay đôi mắt

Trời nỡ lòng xiết chặt dây oan

Sao không dốc sức khuyên can

Để cho Sư Phụ tật tàn bấy nay?

 

Đạo Dẫn than giãi bày mọi lẽ

Nào ngờ đâu rành rẽ lời hay

Thày rằng: Trời đất xưa nay

Vần xoay khí vận đổi thay chính tà

 

Vũ trụ luận nhân hà thế tục

Xen hình hơi thúc giục trôi ra

Hiếu sinh con tạo thiết  tha

Dưới là ngũ nhạc trên là tam quang

 

Đường chính đạo thênh thang ta bước

Còn cách nào tỉnh thức lê dân

Yêu ma ác quỷ vô thần

Xâm lăng lấn chiếm giết dần chúng sinh

 

Đời ngũ đế thái bình thịnh trị

Là bởi vì vận khí thịnh lên

Nhân hòa hợp với hoàng thiên

Ba giềng năm dạy tự nhiên an lành

 

*Nguyên tác thơ lục bát: Ngư Tiều Y Thuật Vấn Đáp

6.5.2020 Lu Hà

 

 

 

Y Đức Hai Họ Mộng Bào

cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 64

 

Khi vận ách trời xanh u ám

Đầy gian truân ảm đảm châu đông

Ghe keo lạc Sở mênh mông

Bảy hùng năm bá tranh công lấp dòng

 

Hết nhân nghĩa đỏ lòng xanh vỏ

Bầy cáo chồn mọi rợ vô luân

Thánh hiền nấp bóng dấu thân

Cọp trong rừng vắng khí phân rối nùi

 

Chịu cơ cầu phanh phui đâu dám

Sự đời càng thê thảm thương đau

Tôi loàn con giặc tranh nhau

Hơi tà ngăn bủa bạc màu sơn khê

 

Hơi chính đâu dãi dề năm tháng

Chẳng còn nhiều cay đắng ê chề

Than ôi! Cái giản nước tề

Ba lần quan sử nối đề “ thí vua“

 

Vua nước Tấn đối đầu trước hết

Làm đồng hồ ngòi viết biên ra

Chính cây chùy Bác Lãng Sa

Trương Lương vì chúa đánh xa Tần Hoàng

 

Bay phần phật Tô lang cờ tiết

Nô đọa đày thảm thiết gian nan

Mất đầu lão tướng Nghiêm nhan

Trương Phi uất khí ngút ngàn bể khơi

 

Chẳng chịu nhục ngậm cười chín suối

Chính khí dâng dong duổi  đế y

Máu trào Kê Thiệu cứu nguy

Cảo Khanh miệng lưỡi lâm ly chúa mình

 

Thường Sơn kia cực hình chửi giặc

Miệng Trương Tuần bạo tặc thất kinh

Tuy Dương khảng khái bất bình

Mắng bầy giặc dữ  Quản Ninh kém gì

 

Thời Tam quốc tru di cửu tộc

Mất ô sa thảm khốc điêu linh

Chính làm tờ biểu xuất chinh

Ra quân bắc phạt Khổng Minh phất cờ

 

Chèo Tổ Địch sang bờ dẹp loạn

Diệt Yết Đê táng tận lăng loàn

Qua sông cái hốt họ Đoàn

Chặn đầu quan hoạn mưu gian soán Đường

 

Hơi chính khí vấn vương tỏa sáng

Ngọn lửa hồng bi tráng dấu ghi

Một trường oanh liệt phù trì

Nên câu ”thiên trụ địa duy” vững vàng

 

Dòng hơi chính lang thang tản mạn

Lạc xa đàng tao loạn sói mòn

Dửng dưng thời cuộc nước non

Chia năm sẻ bảy héo hon dường nào

 

Vòng phú quý lao xao nhầy nhụa

Cảnh triều đình nhớp nhúa gian thần

Sớm tôi, tối chúa vô luân

Mua quan bán tước bất nhân lộng quyền

 

Quỳ mọp lạy hoàng thiên thánh thượng

Mưa móc xin ban thưởng tước vương

Chúa Liêu kiêu ngạo khinh thường

Lê dân bách tính thê lương hãi hùng

 

*Nguyên tác thơ lục bát: Ngư Tiều Y Thuật Vấn Đáp

8.5.2020 Lu Hà

 

 

 

 

 

 

 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét