Trong lịch sử thơ ca của
loài người từ các ông Đỗ Phủ, Lý Bạch, Trần Tế Xương, Nguyễn Khuyến,Tản Đà v
v…chẳng có ai vì thơ mà phải ngồi tù, bị tra tấn đánh đập hoặc bị đấu tố xỉ nhục
đến mức phải tự cầm dao cưá cổ mình như
ông Trần Dần, hoặc bị đảng trù dập phải về quê đóng gạch xe đất như ông
Hữu Loan cả. Sao mà ngày xưa
không có cộng sản người ta làm thơ sướng thế, tha
hồ mà viết mà sáng tạo. Bản chất thơ là tình cảm, những vần điệu nỉ non, mượt
mà du hồn người, động viên người ta hãy cố gắng mà sống mà vươn lên. Làm thơ rất
khó phải có hứng có duyên và phải gặp đúng người đúng cảnh mới làm được. Những
bài thơ do cảm xúc bột phát không bị gò ép miễn cưỡng thường là những bài thơ
hay nhất. Đời thuở nhà ai làm thơ phải theo luận cương văn hoá cuả ông Trường
Chinh nào đó, theo đúng đường lối văn nghệ cuả đảng, không được đi chệnh con đường
đấu tranh giai cấp hơi một tí là bị chụp mũ nâng quan điểm. Cưỡng ép như thế
thì bố thằng nào có hứng có cảm xúc mà làm ra thơ?
Hoạ hoằn lắm mới có cơ may gặp cảm xúc, có hứng
cảm thì ngườì thi sĩ không dám viết. Liệu viết ra có bị lên án quy chụp, vợ con
mình có bị khổ luỵ vì bài thơ mình viết ra không?. Cứ loanh quanh mãi với những
chuyện vụn vặt tủn mủn, những củ hành củ
tỏi cuả đảng thì bao giờ mới làm ra thơ? Thời cơ để sáng tạo, cảm xúc vụt qua đi mất rồi chỉ vì bị bọn cai thơ hãm tài
ngăn cấm chặn họng. Mấy thập kỷ qua ta cứ bị khổ sở hành hạ điếc tai về những
câu khô khẩu hiệu suông cuả ông Hữu, những bài vè ca ngợi non sông hùng vĩ cuả
ông Viên, những bài phê bình dở ông giở thằng chỉ được cái bẻm mép văn vẻ nhưng
rỗng tuếch cuả Hoài Thanh.Thật là khổ nhục vô cùng cho cái hiện thực xã hội chủ
nghiã, mà làm quái gì có văn thơ hiện thực xã hội chủ nghiã kia chứ. Chỉ là một
xã hội nghèo nàn phải đi xếp hàng dài dằng dặc để mua mấy bià đậu và một bát mắm
tôm…Nghe cái anh chàng Phạm tiến Duật làm thơ như đấm vào tai nhưng lại đươc ca
ngợi như thơ cuả viện sĩ hàn lâm. Còn ông Hồ Chí Minh không biết làm thơ, thì lại
ca ngợi là một nhà thơ lớn cuả thời đại. Làm sao một ngườì có trái tim tàn bạo
độc tài như vậy lại có thiên bẩm làm thơ kia chứ?. Ông ấy là người Việt Nam cả
đời không làm nổi được một bài thơ tiếng Việt nào cho ra hồn. Thi sĩ lớn mà cả
đời chỉ có một lần hát ra bốn câu con cóc ngồi đó, con cóc nhảy đi:
"Năm này hơn hẳn mấy
năm qua
Thắng trận tin vui khắp nước
nhà
Nam Bắc thi đua dánh giặc mỹ
Tiến lên toàn thắng ắt về ta“
Thật là hài hước vô cùng ,cả cuộc đời cuả đại
thi sĩ văn hào cuả dân tộc mà chỉ có một
vài bài công khai cóc ghẻ như vậy. Ừ thì cũng
biết gieo vần thật, nhưng nó chỉ ở trình độ nông dân mới thoát nạn mù chữ
thôi, nghe giọng thơ nó quê muà nôm na vô cùng, chẳng xứng đáng chút nào với
khuân mặt văn sĩ lớn cuả thời đại cả, với người có tác phẩm cầm nhầm cuả ông Hồ
nào đó ở bên Tàu. Tập thơ Nhật Ký trong tù, tôi đã đọc rồi cũng bình thường
thôi, nhưng tài nghệ làm thơ còn gấp hơn ông Hồ người Việt Nam nhiều lắm. Các bạn
có ai còn nghe một bài thơ tiếng Việt nào cuả ông Hồ xứng đáng với tầm vóc thi
sĩ lớn cuả thế kỷ 20 chưa? Ngay đến tiếng Việt, tiếng mẹ đẻ mà còn cứt ra quần,
làm thơ với ông Hồ khó vô cùng lại còn tấp tểnh đòi làm thơ chữ Hán kia, khó
tin lắm; Nhưng chưa chắc bài thơ chúc tết này do Hồ làm ra, ai đã mớm thơ cho
ông ta? Nhiều người bảo tập Ngục trung Nhật Ký đâu phải là cuả ông Hồ, mượn tạm
cuả một bạn tù nào đó có tên là Hồ Chí Minh?
Ta hãy đọc qua một bài tôi
cho là tiêu biểu nhất:
"Gạo đem vào giã bao
đau đớn
Gạo giã xong rồi trắng tựa
bông
Sống ở trên đời ngưoì cũng vậy
Gian nan rèn luyện cũng
thành công.“
Nghe thì tàm tạm lọt lỗ tai
đấy nhưng cũng nôm na lắm, còn tất cả chỉ là những câu nghêu ngao giải buồn
thôi như ông già bị bệnh đái rắt, thỉnh thoảng hứng lên thì són ra vài câu cho
đỡ buồn. Thơ phú như vậy mà con cháu ông Hồ dám bảo là những áng văn thơ tuyệt
thế sánh ngang với cụ Nguyễn Trãi, thật chả ra thế nào cả, nói ngang như cua mà
cũng cố nói cho được. Mấy tay đầu nậu thì có ai thơ phú cho ra hồn đâu. Có Xuân
Diệu vài bài trước năm 45 thì khá, nhưng nhạt lắm như nước ốc. Theo tôi anh
chàng này làm thơ chỉ đẻ khoe chữ thôi, có thể anh ta có học vấn, anh ta có một kho từ nhất định nên anh ta tung chiêu chơi
trò gép chữ, làm cho ta loá mắt lên ví thấy thơ anh ta ghép vần quá, trắc bằng
đâu vào đấy cả. Ta dễ bị lạc vào mê hồn trận bát quái cuả ngôn từ. Xin lỗi tôi
có cảm giác thơ Xuân Diệu như là những lời
vô nghiã, rất vần nhưng tối nghiã nhiều chữ đọc kỹ rất mâu thuẫn với nhau. Xin
lỗi chữ nọ chửi mẹ chữ kia.
Đọc thơ tình mà không thấy
có tình. Thà cứ quê muà như anh chàng Nguyễn Bính lại hoá hay, chữ nghiã đơn
giàn thôi nhưng còn có bóng dáng các cô ả còn hình dung ra mông me vú vê cuả
các ả , hay da riết như Hồ Dzech, hay sôi sục trí tưởng tượng về ái dục như anh
chàng Hàn Mạc Tử. Đã là nam nhi thì thơ phải bốc lên chứ cho tỏ mặt anh hào,như
thuyền căng buồm gặp gió biển tình, cột buồm phải dựng thẳng lên chứ, sao lại ỉu
xìu lên như anh chàng Diệu. Nghe không thấy thơ chỉ thấy gào lên la lối về tình
yêu. Đọc thơ các vị cùng thời với Xuân Diệu
sao mà cảm thấy rạo rực đáng yêu thế, tôi có cảm giác còn nghe thấy tiếng
rên tiếng thở khò khè cuả một cô nào đó chả may mắc bệnh xuyễn… Xin lỗi có thể
tôi nói hơi quá, nhưng nó là sự cảm nhận cuả giới tính nam tính với đàn bà. Còn
ông Diệu thì tôi chẳng thấy có cảm giác gì cả cứ iủ xìu xìu, như thơ cuả một
anh chàng đồng tính luyến aí cả đời chưa biết mùi mồ hôi đàn bà mà cũng đòi làm
thơ tình. Thử hỏi trong xã hội ta trai tráng khoẻ mạnh có khả năng sinh sản nhiều
hay mấy chàng đồng cô đồng bóng nhiều? Từ ngày ông Diệu theo Đảng thì cùng ca
kíp với Tố Hữu, Chế Lan Viên, Hoài Thanh tôi gọi là các cai thầu văn nô Cộng Sản,
chả tích sự gì cả chỉ là những hòn đá tảng cản đường các thi sĩ chính danh có
tâm hồn với thi ca, ngăn cản sự sáng tạo cuả họ thôi. Chán lắm.
Tôi có làm bài thơ Cái Bánh
Vẽ Cuả anh để tặng riêng chàng thi sĩ cộng sản Chế Lan Viên. Cũng muốn chép ra đây
đẻ chia sẻ với các bạn
Cái Bánh Vẽ Của Anh
Ngẩn ngơ chiếc bánh vẫn say
màu
Bịt mũi khen ngon quen thói
xưa
Hối tiếc làm gì đừng nói nữa
Cả đời buôn bán bánh cho
nhau
Bán rẻ lương tâm thật chứ
sao?
Hay rằng nhầm lẫn hiểu chưa
ra
Chả may số kiếp đời thi sĩ
Thế kỷ dã tràng cát biển
xa….
Anh cứ lu loa vu oán ai
Khen chê bánh vẽ nịnh xu thời
Ăn năn hối cải làm chi nữa
Thể giới bên kia để tiếng cười
Tôi viết vài câu nhắn nhủ ai
Có gan sống thẳng nói ra lời
Chính danh quân tử là thi sĩ
Khi vẫn còn nhau ở cõi đời
Bánh vẽ nhập nhằng từ nước
Nga
Trung Hoa đại lục cứ tôn thờ
Đua chen nhắm mắt vào bàn tiệc
Men rữa cuồng say vọng thánh
ca
Mấy đưá đàn em cũng ngỡ
ngàng
Nhồm nhoàn nhai chiếc bánh
hư không
Theo nhau anh cả thân tôi mọi
Cho cả cuộc đời con số không
Cái bánh thật tình đâu có xa
Mà anh chậm chạp hiểu không
ra
Nưả già thế kỷ đi buôn bánh
Ở tận phương trời xa cách ta
Tổ quốc việt nam chẳng thiếu
gì
Danh nhân thứ thiệt suốt bao
đời
Trong lò tôi luyện hồn dân tộc
Hun đúc anh minh của giống
nòi
Sinh thời tính khí anh như
thế
Mê muội a dua chạy học đòi
Trí tuệ của anh mòn sáo rỗng
Còn kêu giả thiệt để ai
hay?...
Anh đã giã từ thế giới này
Lại còn di cảo để cho đời
Cho thêm rối rắm người bàn
tán
Muộn quá đi anh đã lỗi thời
Thế giới còn đây soi sáng
cho
Bầu trời trí tuệ mộng đầy
thơ
Thiếu gì tuấn kiệt như sao
sáng
Di cảo cho đời anh khỏi lo…
Tôi biết rằng anh quá tự hào
Sứ mù thằng chột được làm
vua
Đỉnh cao trí tuệ khen muì
bánh
Bột lọc công nông nhân Mác
Lê
Anh cứ thở than nơi chín suối
Lời từ để lại với bàn dân
Lưu manh đảng trị bàn mưu
tính
Gỡ gạc cho nhau di cảo văn
Bây giờ đổ tội lẫn cho nhau
Né tránh làm sao kẻ dẫn đầu
Trách nhiệm về anh đừng chối
nưã
Bao nhiêu oan khổ nợ gây ra
Con cháu giờ đây oán trách
anh
Bao nhiêu thứ giả bán cho đời
Trái tim hư đốn thơ lường gạt
Thế kỷ lầm than lệ ứa rơi
Tôi rất ngạc nhiên di cảo
thơ
Bài thơ bánh vẽ nửa ngâm nga
Ra điều anh vẫn còn hy vọng
Giấc ngủ ngàn thu ai biết
đâu?
Thôi thế ra đi một bóng ma
Hết rồi hiển hách những thời
qua
Còn đâu bánh vẽ mà mua bán
Tiệc riệu tôn thờ ca tụng
nhau…..
20.6. 2008 Lu Hà
(Nhân đọc di cảo thơ cuả Chế
lan Viên)
Cái thời tự lực văn đoàn,
trăm hoa đua nở, văn chương hiện thực xã hội chủ nghiã thì tôi còn đang trong
thời kỳ bú mớm, hoặc còn đang mải chơi bi chơi đáo chứ có biết gì đâu. Nay mái
tóc đã điểm bạc lại định cư ở nước ngoài từ lâu. Vì nhớ nhung Tổ quốc và thèm
nói tiếng mẹ đẻ mà tôi nhẩn nha làm thơ viết văn.. qua đọc các báo điện tử trên
mạng tôi mới biết là Dân tộc ta đã trải qua một thời kỳ dài hâm hấp dở hơi cuả
văn thơ báo chí. Các văn thi sĩ chân chính tài ba bị đảng tẩy não và cạo lông đấu tố phê bình khổ nhục như thế nào? Họ rêu
rao về đường lối văn nghệ cuả đảng, nghệ thuật vị nhân sinh: nhà nhà làm thơ,
ngườì người làm thơ. Các văn sĩ cách mạng vưà thoát nạn mù chữ nổi lên như diều
gặp gió. Họ tuyên dương về văn thơ hiện thực xã hội chủ nghiã. Theo tôi thì làm
quái gì có dòng văn thơ hiện thực xã hội chủ nghiã để ca ngợi chế độ xã hội chủ
nghiã giàu có tươi đẹp vạn lần tư bản .Chỉ có dòng thơ con cóc thôi. Bây giờ
tôi sẽ cùng với các bạn ta bàn thảo xem dòng thơ con cóc này nó hay ho ra sao?
Người Việt nam có câu: „ Con
cóc là cậu ông giời
Ai mà
đánh cóc thì giời đánh cho“
Con cóc là hình ảnh thân thuộc
của người nông dân Việt nam. Cái con vật chỉ biết nhảy bằng hai chân, hôi hám xấu
xí ghê tởm như vậy mà được coi là họ hàng cuả Ông Trời thì quả là một điều đáng
để cho chúng ta bàn đến. Theo tôi con cóc cũng rất qúy vì cóc chỉ ăn sâu bọ để
giảm bớt thiệt hại cho ruộng vườn cuả người nông dân, thịt cóc có giá trị dinh
dưỡng cao, nhất là trong hoàn cảnh đói kém này để chữa bệnh còi xương cho trẻ
con ở nông thôn. Nhựa cóc mủ cóc thì rất độc để dùng trong y học, thân nhiệt cuả
cóc lại nhạy cảm với môi trường và tự nhiên đã ban cho bà con nông dân ta một cái máy dư báo thời tiết sống. Nhờ đó
mà mới đoán biết trước được những cơn mưa hoặc lũ lụt lớn. Nhưng chỉ có một điều
con vật này không có ai muốn gần guĩ nó, vì sự hôi thối bẩn thiủ xấu xí của nó
và nhưạ cuả nó tiết ra lại rất độc, nhỡ chẳng may dính phải có thể thiệt hại đến
tính mạng. Nó sinh ra từ những lỗ nẻ, những vũng nước hang hốc rác rưởi. Nó tượng
chưng cho sự mất gốc thiếu giáo dục, nó lại hay nhảy lung tung vô tổ chức.
Trong lĩnh vực văn chương thơ phú người ta có nói đến thơ con cóc, để hàm ý một
loại thơ tính nghệ thuật kém,hay nhảy lung tung có ý khoe khoang nhưng nội dung
lại rất độc địa xấu xa.
Loại thơ này không giúp gì
cho tính thẩm mỹ, những cảm xúc chân tình thương ái của loài người. Nó không
thăng hoa cái đẹp, đề cao nhân phẩm, lương tâm, tính bản thiện cuả con người.
Nó là loại thơ dối trá , nó là một độc tố rất có hại như mủ cóc tiết ra từ gan
con cóc. Để phê phán loại thơ độc hại vô bổ này tôi có hiến tặng cho đời bài
thơ“ Thơ Ông Cóc“. Đây không phaỉ có ngụ ý miả mai cho một cá nhân nào, hay tạo
ra một đối trọng để tự nâng mình lên. Tôi chỉ muốn nói thực lòng về cảm xúc cảm
nghĩ cuả tôi về nhân tình thế thái mà thôi. Tự do tư tuởng, suy tư, yêu ghét,
chê bai, ngợị khen mà dám viết thẳng ra mới là điều cũng đáng để cho chúng ta
nên xem xét thận trọng..Tất nhiên là trung thực, thẳng thắn, không kiêu căng, đố
kỵ mà cố tình bôi nhọ hạ thấp nhân cách của người khác là một điều không nên,
có gì nói thế. Con người ta là vốn quý, nhưng nhân cách trong văn thơ lại là một
chuyện khác, họ là con người khác. Nhân quả tương báo đều do cái nghiệp của
mình tạo ra cả.
Chúng ta vẫn biết đời đã sinh ra Chu Du thì có
Gia cát lượng, có gia cát Lượng thì có Tư mã Ý, Tào Tháo…Cho nên không ai dám
chắc là hôm nay ta cười người, hại người, giết người, vu cáo đấu tố xỉ nhục, bỏ
tù đày đoạ người khác mà có thể bình chân vô sự mãi được. Rồi về sau, có khi cả hàng ngàn đời sau. Nếu ta chết đi sẽ có người
khác cười ta và chửi ta, thậm chí còn ném phân tro rác rưởi lên mộ bia cuả ta..
Đó là cái luật của luân hồi nhân quả, quả báo mà thôi. Là người Việt Nam chắc
ai cũng biết cái anh chàng Phạm Tiến Duật là một con cóc con tiêu biểu trong thời
kỳ chống Mỹ sau 4 con cóc cụ : Tố Hữu, Hoài Thanh, Xuân Diệu và Chế Lan Viên.
Xuân Diệu với danh tiếng cuả mình là Hoàng Tử Rởm đã gọi Phạm Tiến Duật là con
Phựợng Hoàng sơ sinh.
Ta hãy tưởng tượng thử nghe
nghe hai anh chàng lái xe Trường sơn cuả
đoàn vận tải 559 gặp nhau ở binh
trạm tiền phương. Hạ sĩ Bộ Bộ hỏi trung sĩ
Đội: Đội ơi! Sao xe mày chưa kịp lắp kính à? Đội bảo:" Xe không có
kính, không phải vì xe không có kính. Đạn nổ bom rơi kính vỡ đi rồi" Một câu nói rất vớ vẩn bình thường như vậy,
nhưng Diệu lại gật gù khen mãi, ý tứ thâm sâu, hay vô cùng. Cũng giống như
chàng tổng cóc Tố Hữu gật gù khen mãi chiếc lá đa rơi nghiêng cuả Trần Đăng
Khoa. Nhưng phải thưà nhận ngày xưa họ còn sống cứ như lên đồng, họ tác yêu tác
quái gây bao chuyện bất công bi thương cho nền văn học Việt Nam. Đời thuở nhà
ai laị đi ghét người có tài làm thơ, quy chụp đủ điều, đường lối văn nghệ, quan
điểm giai cấp, tính đảng, tính đấu tranh…Họ giống như những thằng hâm, thơ phú
nó chỉ là sản phẩm tinh thần của một bộ óc, một trái tim, và một tâm hồn.
Ông Các Mác ( Karl Marx) viết bố láo bố lếu để
kiếm tiền nuôi vợ nuôi con ông ta, cũng là sản phẩm tinh thần của cuả bộ óc, có
ai cấm đoán đâu. Mặc dù thời đó ông ta bị coi là người có tư tưởng huyền hoặc,
mơ hồ , phản động, viết lách tuyền truyền nhằm nhiễu loạn nhân tâm. Nhưng bỏ tù
Mác, tra tấn đánh đập Mác đòi đưa Mác đi cải tạo giáo dục thì không thấy nghe
nói đến. Nhắm mắt tôn thờ nói đúng ra là việc cá nhân các vị ấy, chứ dính dáng
gì đến dân tộc Việt Nam, mà dùng súng đạn bắt mọi người phải tuân theo. Thật chả
ra thế nào cả , cứ hâm hâm dở ông dở thằng như vậy, nhưng quyền lực thì vô
cùng, sinh sát tàn ác vô cùng.
Tôi đã sống nửa già thế kỷ đọc
lại lịch sử Việt Nam, chuyện cải cách ruộng đất, chuyện Tố Hữu đày ải ông Hữu
Loan, Trần Dần chỉ vì tài làm thơ hay hơn ông ấy. Ai laị đày aỉ Hữu Loan một người đến tận cùng của kiếp
ngưòi chỉ vì bài thơ khóc vợ. Người ta sinh ra không có tâm hồn, không có tình cảm, không có trái tim biết yêu
thương thì thử hỏi làm thơ để làm gì? Bảo rằng
làm thơ chỉ để ca ngợi kính yêu lãnh tụ và chủ nghiã xã hội thôi, thật
là hâm một cục.
Các Cụ nhà ta ở Việt Nam sau
bữa ăn thường có 3 thói quen, uống nưóc chè, hút thuốc lào và xỉa răng. Nước
chè và thuốc lào là cái thú thưởng thức hương vị và thú cảm. Xỉa răng chỉ để chọc
cái tăm tre vào chân răng lôi ra những thứ lương thực, thực phẩm thưà không cần
nữa để làm mát thoáng chân răng. Tôi cũng vậy muốn làm thoáng mát tâm hồn mình
và hay làm thơ, và nó cũng gần như thói quen
các cụ xỉa răng mà thôi. Nói vậy không phải khoe khoang làm thơ dễ như
xiả răng, hay thò tay vào túi lấy đồ vật mà cái chính muốn nói làm thơ với tôi
là không thể thiếu được trong đời. Dùng thơ để khóc cho đời, nước mắt cuả nhân
tình thế thái, nếu mình muốn khoẻ mạnh và muốn sống đẹp hơn.
Tôi không biết uống rượu và
chẳng nghiện ngập cái gì cả, là đấng nam nhi mà đến cốc bia, điếu thuốc lá cũng
không hút. Ngày xưa các nhà thơ Việt Nam, ai cũng là sâu rượu cả, có cụ còn
nghiền cả thuốc phiện như Tản Đà, Nguyễn Bính chẳng hạn. Nói như thế đâu có ý
dám so sánh với các cụ, tôi chỉ là loại hậu sinh còn phải học các cụ nhiều.
Nhưng tôi chắc chắn hơn hẳn các cụ về mặt thể lực, về mặt sức khoẻ cuả kẻ phàm
phu tục tử này thì kẻ hậu sinh xin phép được tự nhận là hơn thôi.
Mấy chục năm nay tôi luôn no
đủ, ngày nào cũng có thịt ăn, hoa quả muà nào thứ ấy. Như vậy so với các cụ Tản
Đà, Nguyễn Bính v.v… tôi sống sướng hơn các vị
ấy nhiều quá. Còn các khoản khác, trí tuệ, thơ phú tài năng thì chắp tay
mà xin theo lời chỉ dạy của các bác bề trên. Tôi còn hơn các cụ ở điểm là thơ tôi làm ra không phải để in để
bán kiếm tiền mua gạo, nuôi vợ nuôi con. Tôi không nghèo như các vị đó, với đồng
lương hiện tại tôi cũng vui vẻ sống, có tiền mua Ô Tô. Tôi hay làm thơ để kể lể
nỗi khổ nỗi bất công ở đời, những lời yêu thương mà tự tôi cảm nhận thấy, nó cũng
là trò chơi trí tuệ, khi đã dính vào thấy nó cũng hay hay như người nghiện vậy.
Có lẽ bộ óc trái tim con người đã dính vào cái
nghiệp văn chương thơ phú thì bỏ không được, như anh chàng chót nghiện rượu,
nghiện ma tuý vậy. Thực lòng tôi cũng ngaị chữ ảo danh, ngại lời khen không
đúng chỗ. Vì danh vọng, tự phổng mũi
chính nó sẽ giết chết hồn thơ đi, mất luôn cả khả năng sáng tác. Rất nhiều
người có tài làm thơ năng khiếu từ nhỏ và được vội bơm lên là thần đồng, ca ngơị
quá mức đến mức không còn cảm thụ gì nưã. Như trường hợp Trần Đăng Khoa và Phạm
Tiến Duật chẳng hạn. Chính Thày Khổng Tử ngày xưa đã từng nói: “Ai khen ta là
thù của ta, ai chê ta là bạn cuả ta”. Nhưng theo tôi phải là lời cuả các bậc
cao nhân ngang hàng với ông như Lão Tử chẳng hạn, chứ lời cuả bọn Chi Phèo Thị
Nở thì thày Khổng Tử sẽ ngồi xổm lên, đâu có không thèm nghe. Không biết tôi nhớ
vậy có đích xác không?
Ở trên đời không có gì gọi là đỉnh cao, trí tuệ
cả, tuyệt đối chân lý cả, cái ta cho là đúng thì giưã lòng nó đẻ ra cái sai,
cái ta cho là sai thì giưã lòng nó lại đẻ ra cái đúng. Cái sai cuả ngày hôm nay
lại là cái đúng cuả ngày mai. Cái đúng cuả ngày hôm qua lại là cái sai cuả ngày
hôm nay. Nói tóm lại tuỳ thời tuỳ hoàn cảnh mà sự hay dở, đúng sai ta sử trí
cho nó hợp lý tương đối mà thôi. Thơ phú văn chương cũng vậy, có những bài thơ
chỉ hay trong một hoàn cảnh thích hợp, và trái lại nó sẽ lại là điều ghê tởm sỉ
nhục trong một hoàn cảnh chế độ xã hôi khác. Có những bài thơ đạt đến cảnh giới
của lương tâm nhân phẩm trái tim hoàn mỹ không vụ lợi, không tham vọng, thì để
lại hương thơm ngàn thu. Có những bài thơ khi người ta phát hiện ra nó có ý đồ
vụ lợi, tham vọng ích kỷ cá nhân thì tự nó sẽ bị hủy diệt và lưu xú vạn niên. Kể
cả những lời thơ không êm tai, chối tai thô tục, nhưng nó xuất phát từ tấm lòng
thẳng thắn có khi nó còn lại đáng trân trọng hơn những lời thơ hoa mỹ nhưng đầy
giả dối, tâm điạ hẹp hòi bỉ ổi bên trong. Nói tóm lại tôi muốn đề cao chữ “
Tâm”, cái tâm chân thực, kể cả nỗi bực bội khó chiụ cuả người làm ra bài thơ.
Hiểu đúng cái tâm mới là cao quý. Cũng mong quý vị đừng cho là những lơì giáo
huấn thuyết pháp về thơ, tôi không có ý ấy mà chỉ là kể lể tâm sự cuả tôi với
qúy vị, vì tôi đã coi qúy vị như là những ngươì bạn tâm giao cuả tâm hồn, chỉ
quen trên mạng chứ đâu nhất thiết cứ phaỉ gặp nhau ăn uống nhậu nhẹt với nhau mới
là tri kỷ.
Sau đây tôi muốn chia sẻ với
quý vị và các bạn bài thơ tôi tặng riêng anh chàng Phạm Tiến Duật và bài thơ cuả
tôi về Trường Sơn. Theo tôi Trường Sơn là điạ ngục trần gian vì không quen
thung thổ chui vào đây thì khó sống xót lắm, chứ tôi không coi Trường Sơn đẹp
như thiên đường theo cách mô tả cuả Ôông Duật để dụ thêm nhiều chú lính non Bắc
Việt háo danh:
Tặng Anh Phạm Tiến Duật
Con Phượng Hoàng sơ sinh
Xuân Diệu đã gọi anh
Lông măng chưa đủ cánh
Của một thời chiến chinh
Chiến tranh đã qua đi
Người ta còn nhắc laị
Dăm bài thơ chống Mỹ
Ngân vang một cuộc đời
Tôi biết nói làm sao ?
Khi đọc những vần thơ
Ruồi vàng thành bọ chó
Muỗi rừng sâu vo ve
Ôi cuộc đời tang thương
Như cô gái xung phong
Thạch Kim là Thạch nhọn
Anh Duật ơi ! Em đây
Nước mắt cứ chảy daì
Trôi theo hai cuộc đơì
Mà sao đành côi cút
Đêm Trường Sơn mưa rơi
Trong tiếng kèn đưa ma
Kính viếng anh bài thơ
Cuả một người đồng đội
Lính Trường Sơn năm xưa
Hương hồn còn bơ vơ
Con ve sầu ngẩn ngơ
Nuối tiếc thời oanh liệt
Nhưng chẳng dám kêu to....
Lu Hà
Phạm Tiến Duật, thực ra trên
mạng Internet chưa thấy ai đăng trọn bộ thơ ông ta, chỉ có ba bài thơ trích đọan
Trường sơn đông sơn tây, tiểu đội xe không kính và bài thơ gửi em cô gái xung
phong. Theo tôi đây là loaị thơ tuyên truyền, cổ động. Hình ảnh có thể rất sống
động của một người đã từng trải chui bờ rúc bụi ở Trường Sơn. Chính vì vậy đảng
cộng sản Việt nam đã dùng nó như những lá bài tâm lý để cổ vũ Nam-Nữ thanh niên
ra mặt trận. Nhưng tôi thấy nó là một bài hát đi vào lòng lính tráng hơn một
bài thơ. Thơ ông phá luật theo lối tự do viết giống như lời cuả một bài hát,
bài vè. Thơ là tiếng nói của lòng người và của tình yêu. Thơ phải giống như một
người con gái đẹp phải có duyên thầm kín, cái duyên thầm kín đó là cái hồn của
thơ. Một người con gái càng đẹp thì phải có tính hấp dẫn, tính kêu gợi và kín
đáo. Cũng như khi đọc một bài thơ phaỉ để laị trong lòng ta một dư âm và nhiều
vương vấn, nỗi lòng và bao nhiêu điều thầm kín khác nưã còn che dấu. Hay nói một
cách dễ hiểu: còn nhiều ý nghiã ẩn ý trong thơ. Đọc thơ Phạm Tiến Duật như ta bắt
gặp một cô gaí Lào không còn một mảnh aó xiêm nào cả. Tôi không nói tính dâm
đãng. Thơ Phạm Tiến Duật không có dục tính mà tôi nói sự trần trụi ngô nghê của thơ. Loaị thơ này dễ phù hợp cho
chính sách tuyên truyền quần chúng, loaị thơ phổ thông. Có lẽ chỉ số thông minh
cuả tôi ở trên mức trung bình nên tôi hiểu thơ ông Duật chỉ là loại thơ vô
nghiã nặng tính tuyên truyền. Giống như
anh chàng nhạc sĩ Trịnh Công Sơn ngược lại với Phạm Tiến Duật chuyên làm nhạc phản chiến theo đơn đặt hàng
cuả cục tình báo cộng sản. Phân tích kỹ
là những lời vô nghiã nhưng hát lên nghe rất sầu thảm, cốt làm thối lòng binh sĩ
cộng hoà miền Nam. Nếu ai hỏi ý nghiã một số câu trong bài hát thì anh chàng sẽ
cáo già từ chối, biện bạch là thử trí thông minh cuả người nghe. Đây là tôi nói
huỵch toẹt ra chứ không phải khoe mình là người
thông minh làm gì.
Từ lâu tôi chỉ thích tìm đọc những bài cổ thi đầy ẩn
ý như của Nguyễn Khuyến, Tản Đà, Hồ Xuân Hương, hay thích đọc thơ Nguyễn Bính,
Hồ Dzech. Đúng là Thơ Phạm Tiến Duật hay
nhưng ở mức độ bình dân thôi, nhưng đằng này ngươì ta bơm ông ta lên quá đáng
như là một nhà thông thái, viện sĩ hàn lâm về thơ.... Lịch sử dân tộc ta còn nợ
của những người như Trần Tú Xương( thơ cũ) , Tản Đà ( nửa cũ nửa mới) và Hồ Dzech
( thơ mới). Ba con người này mới xứng được tôn vinh, nhưng cả ba sống rất khổ cực,
cơm không đủ mà ăn và còn nữa là Hữu Loan chỉ xài thơ tự do nhưng ông có bài
Màu Tím Hoa Sim rất hay...
Chỉ có vài bài thơ chống Mỹ
thôi mà Xuân Diệu laị bơm Phạm Tiến Duật
lên là con Phượng Hoàng non? Theo tôi có lẽ chỉ muốn làm đẹp lòng đảng
nên Xuân Diệu đã cưa sừng làm nghé. Một ngươì làm thơ cầu kỳ chau chuốt như
Xuân Diệu không lẽ laị đơn giản như thế ư? Về mặt này t ôi nghi ngờ sự thành thực
của ông Xuân Diệu. Theo tôi thơ Phạm tiến Duật chỉ xứng đáng chỉ là loaị thơ cổ
động tuyên truyền, thơ tâm lý chiến có giá trị trong một chừng mực nào đó. Thế
hệ con cháu và cả chính bản thân t ôi nưã cương quyết không học cái lối làm
thơ theo kiểu Phạm Tiến Duật. Hiện nay ở
Hà nội, Sài Gòn có phong trào loạn thơ, làm thơ cứ như viết văn vần. Kể cả các
ông thợ thơ như Xuân Diệu, Chế Lan Viên, Lưu Trọng Lư, Cù Huy Cận v.v .... Những
bài thơ hay toàn là những bài trước năm 1945, rồi đuối dần đến năm 1954 . Sau
đó họ là đỉnh cao cuả dòng thơ tăm tối, vô nghiã, chỉ biết ca ngợi một chiều,
thơ con cóc, thơ con vẹt ...
Ngoài chuyện khuyến khích bắn
giết ra ngoài ra chẳng có cái quái gì nưã để viết. Nếu đọc thơ để học tập và
thưởng thức nghệ thuật văn chương thì theo tôi Phạm Tiến Duật là nhà thơ tồi tệ
chán ngán nhất cuả tôi. Xin lỗi đó là ý kiến cuả cá nhân tôi thôi, chứ đối với
thiên hạ có thể ông ta còn đắt giá lắm.Theo tôi mấy câu hô khẩu hiệu cuả ông Duật,
ông Hữu, ông Viên v.v..không giúp gì cho ta ý thức thẩm mỹ trình độ dân trí lên
cao. Chiến tranh đã qua lâu rồi, thơ ca cũng đóng góp rất nhiều về mặt kích động
tinh thần, dù bài thơ đó không có giá trị về mặt nghệ thuật văn học. Nhưng thử
hỏi ông Phạm Tiến Duật được cái gì cho sự cố gắng của mình? Một caí lều ở nhờ
nhà người bạn. Cái Huân chương mà người ta muốn tặng ông ta thà cho ông ta một
căn hộ vài mét vuông còn hơn.
Tôi có cảm tưởng như ông Duật
là loaị ngươì ưa nịnh, hiếu thắng, thích danh tiếng và là một tín đồ rất đặc biệt
của lý tưởng cộng sản. Từ suy tư như vậy laị đọc ba baì thơ của ông ta , mặc dù
thiên hạ khen hay theo guồng máy tuyên truyền cuả đài và báo chí. Nếu người ta
cứ in bình thường và đừng thiên vị nó về mục đích chính trị thì giá trị cũa nó
sẽ rất khác. Thơ là tiếng nói của trái tim, của tâm hồn và nghệ thuật thì hãy để
cho lòng người tự nhiên cảm nhận đến nó. Còn cố tình tôn xưng bài thơ và tôn
xưng ngươì cha tinh thần cũa nó như ngày xưa là chuyện khác. Bây giờ ta không cần
mục đích chính trị nữa, nên thơ Phạm Tiến Duật cứ để cho người đời và lịch sử văn
học thẩm định. Có đọc mới biết được trong đầu ngươì khác nghĩ gì? Tôi đã
suy nghĩ và mạnh dạn viết ra cũng không
phaỉ là thưà thãi vô bổ. Có điều gì làm các bạn khó chiụ phật lòng hãy bỏ quá cho tôi . Nếu các bạn dành tí chút
thời gian đọc lướt qua cho vui. Muốn được thỉnh giáo bạn nào có hảo ý đóng góp
cho tư tưởng cuả tôi. Nhưng phải là người có hiểu biết về thơ ít nhất là bạn đã
có 100 bài thơ tự làm ra hoặc bạn là nhà văn đã có tác phẩm thì mới nên đóng
góp cho tôi, cùng lắm là các bạn có kiến thức hiểu biết thật sự và có cái tâm
muốn xây dựng thì cũng rất hoan nghênh. Còn ú ớ theo kiểu củ hành củ tỏi cuả
công an mạng ( CAM ) viết ra tôi không thèm đọc đâu.
Khác với Phạm Tiến Duật tự
lường gạt mình coi Trường Sơn là thiên đàng thì tôi lại coi Trường Sơn là điạ
ngục trần gian.
Giấc mơ Trường Sơn
Mấy tháng trơì nhai maĩ Địa
Liền
Tàu Bay rau đất mọc loèn
xoèn
Mật vàng xanh đỏ ruồi bu đến
Sốt rét từng cơn nhớ Tổ Tiên
Hai mùa mưa nắng gió vàng da
Chống gậy liêu xiêu mắt ướt
nhoà
Đằng đẵng tháng ngày mong moỉ
Tết
Thư nhà xa tít gió mây xa
Một chiều ảm đạm gọị lên
chơi
Có bức thư riêng đã mở rồi
Ký ninh thuốc đắng nghe vượn
hú
Đau lòng con lắm lệ từng rơi
Run tay tôi đọc bức thư Cha
Gió rét từng cơn nấc nghẹn
ngào
Bom nổ đạn bay vùng tọa độ
Chớp xanh chớp đỏ tắt lời
thơ
Một đơì lính tráng chẳng mề
đay
Công trạng xem ra chẳng có
gì
Phá nuí mở đường thông chiến
lược
Tháng ngày mòn moỉ ngóng mây
trôi
Mới mười bảy tuổi phaỉ tòng
quân
Xa Mẹ xa em cả mái trường
Gác bút vác dao ra mặt trận
Anh hùng dũng sĩ ở miền nam
Một quãng đời qua trận gió
bay
Hào quang tia chớp để ai hay
Nuí sông kêu gọi cho Chủ
Nghiã
Băng tuyết trời âu đổi hướng
rồi
Hơĩ ai đâu đó vẫn còn mơ
Chống Mỹ lời vàng vẳng tứ
thơ
Ra trận muà này ôi đẹp quá
Mà lòng phơi phới dậy tương
lai
Thế kỷ qua rồi ngoặt gió
đông
Bạn thù đôi ngả lẩn vào
trong
Tuyên truyền báo chí liên
hoàn trận
Chỉ chết thằng ngơ đứng giưã
đường...
22.12. 2007, Lu Hà
Chú thích: Điạ Liền: là loaị
rau mọc loà xoà sát đất
Tàu Bay: loaị rau cao như cây rau caỉ, xanh lè
Thơ Ông Cóc
viết cho Tố hữu
Ông là con cóc lạ trần gian
Loài vật sinh ra có bốn chân
Ông có hay không loài cóc
nhái
Suốt đời chỉ biết nhảy bằng
chân
Tôi biết rằng ông kẻ bất
nhân
Mặt trời gian dối buốt tim
dân
Giọt thơ lai láng hồn non nước
Vãi cả ra quần bậc trí nhân
Vỗ ngực tự khen chỉ có ông
U mê tăm tối vẫn kiêu căng
Mật gan nhựa độc sâu tâm địa
Răng nghiến thành thơ cóc sấm
vang
Nam Á nổi cơn giông cách mạng
Cánh đồng tắm máu tưới muôn
dân
Mỗi khi cóc đỏ nuôi thù hận
Mưa lại sầu thương thảm thế
trần
Con cóc một thu thành đế
vương
Bầm ơi! Năn nỉ khắp non sông
Mạ non tay cấy ôi tình mẹ
Mủ cóc tuôn ra nát tấm lòng
Con cóc đỏ lòng thật thế ư
Thương bầm thiên hạ có bao
nhiêu?
Thì ra mẹ đẻ quên nòi giống
Thơ cóc tuyên truyền thích
nói điêu
Tình thương giai cấp máu
chan nhoà
Dễ từ lỗ nẻ mà chui ra
Đói ăn đại hạn tìm sâu bọ
Nghiến răng con cóc báo trời
mưa...
Cóc vẫn thường khoe năm bước
dài
Bắt đầu nguyên thủy thuở xa
xôi
Trải qua nô lệ rồi phong kiến
Tư bản nhảy lên đến cõi trời
Cộng sản thiên đường cóc mộng
mơ
Trần gian hưởng thụ cuả dư
thưà
Ếch ương cóc nhái muà thơ lớn
Tố Hữu vờn chơi những bóng
ma
Thơ cóc ngày xưa rất thịnh
hành
Bước từ Việt Bắc chốn rừng
xanh
Thong dong tám thước tha hồ
rộng
Sắt máu đường đi cóc hoá
tinh
Mấy thập kỷ qua chuyện đã rồi
Vần thơ mưa máu cóc phun coi
Điên đầu rửa não bao con
cháu
Thơ cóc tôn vinh nhục thế
này
Con cóc nghiến răng động sấm
vang
Cơn giông cách mạng nước
tuôn dòng
Trôi bao hồn trẻ theo dòng
xoáy
Thân xác phơi đầy ngập núi
sông
Nhắm mắt bám chân con cóc
hoài
Nhảy qua năm bước chạy theo
dài
Dư thưà một bước đòi thiêu
cháy
Quá độ thiên đường ai có
hay?...
Nực cười con cóc cũng làm
thơ
Ú ớ tự khen đáng mấy xu
Trái tim máu mủ từ gan mật
Nhục nhã ngàn năm uế xứ mù.
24.8.2008 Lu Hà
Tái bút: Đây là cây nhà lá
vườn, mong các bạn đọc thấu hiểu cái nội dung là chính, chứ đừng không ưa bài
viết vì không phù hợp với thế giới quan nhân sinh quan rồi vờ vĩnh bới bèo ra bọ,
bắt bẻ vài lỗi chính tả ra để gây sự với tôi thì không nên. Tôi tận tình viết
dài như vậy là quý lắm rồi, chứ tôi có được xu rỉ nào đâu cho cái lòng cuả tôi
với đại đa số các bạn.
Còn bạn nào đó là CAM, công
an mạng hãy nên theo gương tôi mà tập làm thơ hay viết văn cho nó đàng hoàng chứ
đừng vì nhiệm vụ cách mạng mà chửi bậy nhé.
Viết ngày 23.3.2012 Lu Hà
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét