Chủ Nhật, 24 tháng 1, 2021

Lu Hà Và Nguyễn Bá Trác

 *Nguyên tác bài ca “Hồ Trường“ bản dịch từ tiếng Tàu sang tiếng Việt của Nguyễn Bá Trác

“Đại trượng phu không hay xé gan bẻ cật phù cương thường

Hà tất tiêu dao bốn bể lưu lạc tha phương

Trời nam nghìn dặm thẳm

Non nước một mầu sương

Chí chưa thành, danh chưa đạt

Trai trẻ bao lăm mà đầu bạc

Trăm năm thân thế bóng tà dương

Vỗ gươm mà hát

Nghiêng bầu mà hỏi

Trời đất mang mang ai người tri kỷ

Lại đây cùng ta cạn một hồ trường

Hồ trường! Hồ trường!

Ta biết rót về đâu?

Rót về Đông phương, nước biển Đông chẳy xiết sinh cuồng loạn

Rót về Tây phương, mưa phương Tây từng trận chứa chan

Rót về Bắc Phương, ngọn Bắc phong vi vút cát chạy đá giương

Rót về Nam phương, trời Nam mù mịt có người quá chén như điên như cuồng

Nào ai tỉnh, nào ai say

Lòng ta ta biết, chí ta ta hay

Nam nhi sự nghiệp ư hồ thỉ

Hà tất cùng sầu đối cỏ cây“

 

 

 

Hồ Trường Hận

Cảm hứng khi đọc bài ca Hồ Trường của Nguyễn Bá Trác

 

Hồ trường dốc cạn chén say

Quên bao uẩn ức đắng cay lụy phiền

Oán hờn sầu hận triền miên

Nam nhi hồ thỉ thuyền quyên anh hùng

 

Trượng phu tứ hải bập bùng

Lửa thiêu đồng nội chập chùng biển khơi

Lạc miền băng tuyết rong chơi

Phương Tây xứ lạ chơi vơi cửa rừng

 

Trán nhăn tư lự rưng rưng

Trời Nam xa tít dửng dưng non ngàn

Tỷ Can móc ruột xé gan

Thẹn nghe Chu Vấn khuyên can giúp đời

 

Cột rồng nghiêng ngả tả tơi

Tìm đâu tri kỷ trọn lời nước non

Rượu lòng Tư Mã héo hon

Kinh Kha vỗ kiếm chon von đỉnh sầu

 

Chí trai chưa thỏa bạc đầu

Tầm Dương sóng bạc chân cầu lệ rơi!

Rượu bầu thơ túi muôn nơi

Ngậm ngùi cố quận ai người cùng ta

 

Biển Đông muối mặn dương tà

Ngựa hồ gió bắc xót xa não nùng

Cành Nam làm tổ chim cùng

Cáo quay về núi cây rung sương trào

 

Đập bàn quắng chén say vào

Trợn trừng quắc mắt nghẹn ngào châu sa

Vỗ tay tửu nhập lời ra

Gió mây gào thét tiếng gà tàn canh!

 

19.3.2017 Lu Hà

 

 

 

 

Ly Rượu Vỡ

Cảm dịch thơ Nguyễn Bá Trạc: Hồ Trường

 

Đại trượng phu gan tày trời đất

Óc bùn lầy tất bật tha phương

Nước Nam nghìn dặm cố hương

Một vầng mây trắng tang thương thảm sầu

 

Chí chưa thành mà đầu đã bạc

Tóc xanh buồn thân xác héo tàn

Tà dương tuổi trẻ non ngàn

Nghiêng bầu dốc cạn chứa chan đôi dòng

 

Hỡi hồ trường long đong kiếp phận

Rót về đâu lận đận phương đông

Phương tây đồng cỏ mênh mông

Lạc miền băng gía bụi hồng mờ xa

 

Lại hồ trường sa đà phương bắc

Trận cuồng phong xào xạc hung nô

Ai say ai tỉnh ô hô!

Nam nhi hồ thỉ cơ đồ cỏ cây

 

Câu đối họa ngất ngây tửu điếm

Chén ly tao vỗ kiếm tiêu dao

Xót xa khúc nhạc ứa trào

Châu sa chén ngọc nghẹn ngào cố nhân

 

Rồi đập vỡ rung sàn ván gỗ

Gác lầu hoa cổ độ trăng soi

Cuốc kêu thảm thiết giống nòi

Hạc bay trong gió hận đời lẻ loi

 

Hồ trường nữa mặn mòi chảy ngược

Trợn mắt nhìn hừng hực Kinh Kha

Dòng sông Vị Thủy bao la

Quê hương xa lắc nước nhà ta ơi!

 

16.3.2017 Lu Hà

 

 

 

 

Giọt Lệ Canh Thâu

Cảm khái từ khúc ca của Nguyễn Bá Trác: Hồ Trường

 

Bậc trượng phu gan tày thế sự

Chí can thường lạc thủy tha phương

Phong trần kẻ sĩ mang hài cỏ

Cật ngựa thanh gươm đẫm áo sương

 

Chí chưa đạt tủi lòng nam tử

Bóng ác tà đầu bạc trắng râu

Khinh cừu tứ mã xa vời vợi

Giọt lệ tuôn đàn hạc vó câu

 

Nghiêng bầu dốc cạn cùng tri kỷ

Ngất nghểu cười lảo đảo bể dâu

Hồ trường bi lụy tang bồng thỉ

Biết rót về đâu trải mấy thâu

 

Phương đông biển động sinh cuồng loạn

Nẻo bắc ầm vang tiếng ngựa hồ

Phiêu lãng trời tây băng gía tuyết

Nam phương tủi hận nợ cơ đồ

 

Kẻ tỉnh người say bầu rượu cạn

Trăng tàn nguyệt lạnh khóc ô hô!

Tiếng quạ ăn đêm sầu vạn cổ

Phong kiều dạ bạc bến Cô Tô

 

Hoàng hạc lầu son buồn qúa khứ

Tỷ Can ai biết có Chu Vân

Xé gan bẻ cột nghe mà thẹn

Ngửa cổ gào lên hỡi cố nhân!

 

Thiếu kẻ nuốt than như Dự Nhượng

Qua sông Vị Thủy dáng Kinh Kha

Tráng sĩ ra đi không trở lại

Trăng thu vằng vặc khắp sơn hà!

 

19.3.2017 Lu Hà

 

 

 

 

Khúc Sầu Ca Tê Tái

Cảm hứng từ khúc ca của Nguyễn Bá Trác: Hồ Trường

 

Hồ trường dốc, hồ trường say túy lúy

Đấng trượng phu từng vặn cột bốc gan

Trời nam phương ngàn dặm dấu quan san

Ta uống cạn chén sầu ly đầu bạc

 

Nuôi chí lớn ai dè thân cò vạc

Quê hương người xơ xác bóng tà dương

Lại nghiêng bầu ngao ngán vẻ chán chường

Vỗ gươm hát biết ai là tri kỷ

 

Lửa cừu hận bụi mù roi thiết kỵ

Áng mây bay cánh đồng cỏ mênh mông

Hơi rượu phun lã chã tưới biển đông

Ngọn gió bắc sấm gầm quân mạc tiếu

 

Mưa xối xả gò lưng phi nước kiệu

Cuộc đỏ đen sát phạt bến bờ tây

Rót về đâu thổn thức chén lệ đầy

Nghe tiếng nhạc khúc tiêu sầu tê tái

 

Khi xa nước tóc còn xanh chi ngại

Sách thánh hiền học được bấy nhiêu thôi

Kiếp trầm luân thui thủi bọt bèo trôi

Cuộc dâu bể xót xa buồn thế sự

 

Trán tư lự chén hồ thương lạc hỷ

Gọi hồ trường tiếng Việt khóc hu hu

Bạn đời ơi hiu hắt thổi hoang vu

Xương cốt trắng rừng thông trăng cổ độ

 

Lòng ta biết chí tang bồng quốc tổ

Nghìn năm sau réo rắt tiếng đờn ca

Dòng sông hương xõa tóc rặng tre ngà

Hà tất phải cùng cỏ cây sầu thảm!

 

19.3.2017 Lu Hà

 

 

 

 

Rót Chén Tiêu Dao

Cảm hứng khúc ca của tác gỉa vô danh bên Tàu do Nguyển Bá Trác dịch

 

Hãy dốc cạn hồ trường

Phun hơi tỏa bốn phương

Như trận mưa mùa hạ

Giọt sương rơi cố hương

 

Tráng sĩ tuốt gươm sắc

Hài cỏ chí tang bồng

Rung chòm râu tóc bạc

Say xưa chén rượu nồng

 

Thẹn lòng nghe Tỷ Can

Cay đắng chuyện Chu Vân

Xé gan lay cột trụ

Tứ hải gót phong trần

 

Múa bút vẽ câu thơ

Thê lương áng trăng mờ

Tủi hờn Phạm Ngũ Lão

Sầu hận đời bơ vơ

 

Rót nữa về phương đông

Ứa tràn khắp cánh đồng

Biển dâng sinh cuồng loạn

Rụt cổ ngó mây rồng

 

Một chén hướng phương tây

Gía băng tuyết phủ dày

Ôm cây đàn thổn thức

Rưng rưng chén lệ đầy

 

Nào ai tỉnh ai say

Tha phương kiếp lưu đày

Chén nam nhi hồ thỉ

Nấm mồ xanh cỏ cây

 

Hồ thương gọi hồ trường

Nỗi niềm bao vấn vương

Công ơn Nguyễn Bá Trác

Bậc trượng phu cương thường!

 

20.3.2017 Lu Hà

 

 

 

 

 

 

 





Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét